Bối cảnh Chiến_tranh_Yom_Kippur

Nguyên nhân

Cuộc chiến này là một phần của cuộc Xung đột Ả Rập-Israel, một cuộc xung đột kéo dài cho tới nay, gồm nhiều cuộc chiến tranh và trận chiến kể từ năm 1948, khi quốc gia Israel được thành lập và các nước Ả Rập quyết tâm thôn tính Israel. Trong cuộc chiến tranh Sáu ngày năm 1967, quân Israel đánh chiếm bán đảo Sinai từ tay quân Ai Cập cho tới tận kênh đào Suez, và chừng nửa cao nguyên Golan từ Syria để tạo vùng đệm bảo vệ lãnh thổ của mình trong bối cảnh bị các nước Ả Rập bao vây và uy hiếp nặng nề.

Trong những năm tiếp đó, Israel dựng lên một hệ thống phòng thủ trên bán đảo Sinai và cao nguyên Golan. Năm 1971 Israel bỏ ra 500 triệu dollar để củng cố các vị trí dọc kênh Suez, là một chuỗi các đồn và công sự đất khổng lồ được biết đến với tên gọi tuyến Bar Lev, theo tên một vị tướng Israel là Chaim Bar-Lev với 8.500 binh sĩ đồn trú trong 30 cứ điểm cách nhau khoảng vài km.

Dù thế nào đi chăng nữa, theo Tổng thống Israel Chaim Herzog:

Ngày 19 tháng 6 năm 1967, Chính phủ Quốc gia thống nhất Israel bỏ phiếu kín về việc hoàn trả Sinai cho Ai Cập và Cao nguyên Golan cho Syria để đổi lấy thỏa thuận hòa bình. Cao nguyên Golan sẽ phải được phi quân sự hóa, và một thỏa thuận đặc biệt phải được đặt ra cho Eo biển Tiran. Chính phủ cũng quyết tâm tiến hành đàm phán hòa bình với Vua Hussein xứ Jordan để giải quyết vấn đề biên giới phía đông.[12]

Người Israel muốn chính phủ Hoa Kỳ chuyển nghị quyết này cho các quốc gia Ả Rập. Hoa Kỳ được thông báo về quyết định này, nhưng không chuyển nó đi. Không có bằng chứng nào cho thấy Ai Cập hay Syria nhận được đề nghị này. Quyết định này được chính phủ Israel giữ bí mật, rồi hủy bỏ hoàn toàn vào tháng 10 năm 1967.[13]

Cả Ai Cập lẫn Syria đều muốn giành lại các lãnh thổ đã mất trong cuộc chiến tranh Sáu ngày. Tổng thống Ai Cập khi đó là Anwar el-Sada quyết tâm giành lại những vùng đất đã mất bằng một cuộc chiến khác. Ông liên hệ với Tổng thống Syria Hafez el-Assad, người cũng đang muốn chiếm lại cao nguyên Golan. Assad ủng hộ ý định của Sadat. Đồng thời, Jordan và Iraq cũng đồng ý cung cấp một số đơn vị quân đội. Tại cuộc họp ở Khartoum, phe Ả Rập ra tuyên bố "ba không": "Không hòa bình, không công nhận và không đàm phán với Israel."

Khi phát động chiến tranh, Tổng thống Ai Cập không định hủy diệt Israel bởi quân đội Israel có trang bị quá mạnh, lại còn được Mỹ hậu thuẫn. Thay vào đó, ông muốn giáng một cú đòn đủ mạnh để buộc Israel ngồi vào bàn đàm phán và trả lại lãnh thổ cho Ai Cập (giống như người Việt Nam đã làm khi chiến đấu với Mỹ)[cần dẫn nguồn]. Ông nhấn mạnh: “Nếu chúng ta có thể tái chiếm thậm chí chỉ là 10 cm lãnh thổ Sinai, thì cục diện sẽ thay đổi, ở phía đông, phía tây và tất cả những nơi khác”. Điểm mấu chốt là phải nhanh chóng tái chiếm càng nhiều đất càng tốt để tạo thế mặc cả vững chãi cho Ai Cập trên bàn đàm phán.

Chuẩn bị lực lượng

Trong chiến tranh Sáu ngày năm 1967, khi lãnh đạo các nước A Rập đổ lỗi cho thất bại là tại chất lượng vũ khí Liên Xô kém, Chủ tịch Xô Viết Tối cao (Quốc hội) Liên Xô N. Podgornyi đã nói thẳng: “Vấn đề không phải là máy bay và xe tăng của chúng tôi chất lượng thấp, mà là ở chỗ người A rập không đủ trình độ để sử dụng những loại vũ khí đó”. Còn Đại sứ Liên Xô tại Beirut, Asimov, nói với Tổng thống Sirya Kh. Assad: “Chúng tôi đã cung cấp cho các ngài một số lượng khổng lồ các loại vũ khí mà các đồng chí Việt Nam của chúng tôi có nằm mơ cũng không thấy. Tuy nhiên, Quân đội Việt Nam, được trang bị những loại vũ khí lạc hậu hơn nhiều so với các ngài đang chiến đấu và chiến thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới (Mỹ)”

Rút kinh nghiệm từ thất bại năm 1967, quân đội các nước Ả Rập không còn chỉ biết ỷ vào số lượng vũ khí mà họ đã chú trọng hơn đến việc huấn luyện tác chiến cho binh sĩ. Người Nga đã đưa qua nhiều chuyên viên, cố vấn quân sự để giúp huấn luyện quân đội hai nước Ả Rập này. Thời gian 3 năm là không đủ để trui rèn toàn bộ binh sĩ Ả Rập và trình độ tác chiến của họ còn kém khá xa quân đội Liên Xô, nhưng dù sao họ cũng đã thể hiện tốt hơn nhiều so với cuộc chiến trước.[cần dẫn nguồn]

Xe tăng T-62 viện trợ cho Ai Cập

Trong năm 1970-1973, vũ khí và đồ tiếp vận từ Liên Xô liên tục được chuyển tới các nước Ả Rập, đặc biệt các dàn hỏa tiễn, súng phòng không, và vũ khí chống chiến xa. 15 hệ thống hỏa tiễn đất đối không kiểu mới SA-6 được trang bị cho quân đội Syria, 10 hệ thống cho Ai Cập. Syria còn nhận được loại hỏa tiễn đất đối đất Frog-7 có tầm hoạt động trong vòng 40 dặm. Liên Xô đã viện trợ để tăng cường sức mạnh cho các đơn vị Thiết giáp Ai Cập và Syria. Trong thời gian này, Ai Cập đã nhận được 1.260 xe T-54/55, 400 xe T-62, 150 xe chiến đấu bộ binh mới nhất BMP-1 và nhiều loại vũ khí khác. Quân đội Syria cũng được vũ trang quy mô lớn không kém. Thêm vào đó là các hỏa tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger, súng chống tăng vác vai RPG-7.

Căng thẳng nơi biên giới Syria bắt đầu từ ngày 13/9 khi hai phản lực cơ F-4 Phantom với bốn Mirage hộ tống bay thám thính đã xâm phạm không phận Syria. Trận không chiến xảy ra và cả hai bên đều gửi thêm máy bay lên tham chiến. Trong đợt đầu, Do Thái bắn rơi 8 phản lực cơ MiG, đổi lại một Mirage bị rơi, viên phi công nhảy dù xuống biển Địa Trung Hải cách bờ khoảng ba dặm. Người Syria không bỏ qua, gửi lên bốn chiếc MiG khác bao vùng cho một khinh tốc đỉnh đến bắt sống viên phi công Do Thái. Một trận không chiến thứ hai xảy ra, lần này các phi công Do Thái bắn rơi cả bốn chiếc Mig. Trực thăng vào cứu phi công bị rơi, bắt luôn viên phi công Syria nhảy dù xuống gần đó.

Trong suốt Chiến tranh tiêu hao (1968-1972), máy bay chiến đấu của Israel bắn hạ sáu MiG-21 của Ai Cập, đối lại MiG-21 của Ai Cập bắn hạ 2 máy bay và có thể đã hạ thêm 3 máy bay khác của Israel. Israel cũng tuyên bố đã hạ 56 chiếc MiG-21 của Ai Cập, trong khi MiG-21 của Ai Cập bắn hạ 14 máy bay Israel và có thể đã hạ thêm 12 máy bay khác của Israel. Trong cùng thời gian đó, Israel tuyên bố tổng cộng 25 chiếc MiG-21 của Syria bị phá hủy; Syria tuyên bố MiG-21 của họ đã bắn hạ 3 máy bay và có thể đã hạ thêm 4 máy bay khác của Israel[14].

Thiệt hại cao của máy bay khiến khối Ả Rập yêu cầu Liên Xô giúp đỡ. Vào tháng 6 năm 1970, các phi công Liên Xô và các đội tên lửa phòng không đến Ai Cập với các thiết bị của họ, cán cân trong các cuộc không chiến đảo chiều. Trong 2 năm 1970-1971, MiG-21 do các phi công Liên Xô lái và các đơn vị phòng không do họ vận hành đã phá hủy tổng cộng 21 máy bay Israel trong khi họ chỉ mất 4 chiếc MiG-21, khiến Israel chấp nhận ký một thỏa thuận ngừng bắn tạm thời[14].

Bộ Chỉ huy Ai Cập trong chiến dịch giành lại bán đảo Sinai tháng 10-1973: Tổng thống Anwar Sadat (người đang chỉ bản đồ), tướng Ahmad Ismail Ali, tướng Saad el-Shazly, tướng Mohamed Abdel Ghani el-Gamasy, tướng Hosni Mubarak (sau này trở thành Tổng thống), tướng Fouad Mohamed Abou Zikry, tướng Mohammed Aly Fahmy, tướng Abdul Munim Wassel, tướng Abd-Al-Minaam Khaleel, đại tá Saad Mamoun

Năm 1971, Liên Xô quyết định triển khai một nhóm MiG-25 tới Ai Cập để giúp nước này trinh sát hệ thống phòng thủ của Israel ở bờ đông bán đảo Sinai. 4 chiếc MiG-25 của Liên Xô đã hoạt động tạm thời trong Không quân Ai Cập vào năm 1971 dưới vỏ bọc tên gọi "X-500", cả bốn chiếc đều vẽ phù hiệu của không quân Ai Cập. Nhiệm vụ trinh sát đầu tiên vào ngày 10/10/1971, hai chiếc MiG-25 bay tới biên giới Israel - Lebanon ở độ cao 21.300 mét, chỉ cách bờ biển Israel khoảng 27 km. Không quân Israel (IAF) đã cử nhiều máy bay F-4 Phantom lên đánh chặn nhưng không thành công. Tới tháng 11, IAF chuẩn bị hai chiếc F-4 được tháo toàn bộ thiết bị không cần thiết, giúp chúng đạt độ cao đủ để tấn công MiG-25. Phi công Israel phóng tên lửa AIM-7 Sparrow về phía chiếc MiG-25, nhưng quả tên lửa không thể bắt kịp tốc độ hơn 3.700 km/h của MiG-25, chiếc MiG-25 trở về an toàn. Việc không thể đánh chặn MiG-25 khiến quân đội Israel tức giận, họ triển khai các nhóm F-4 Phantom tuần tra gần sân bay Cairo-West của Ai Cập để hạ MiG-25 khi chúng vừa cất cánh. Trong một nhiệm vụ, đã có tới 48 máy bay Israel xuất kích để tìm cách bắn hạ chiếc MiG-25, nhưng vẫn không thành công.[15]

MiG-25 bay theo đội hình 2 chiếc, ở tốc độ gấp 3 lần vận tốc âm thanh (3.700 km/h), MiG-25 chỉ cần hai phút để bay hết chiều dài chiến tuyến dọc theo kênh đào Suez phân chia Ai Cập và Israel. Mỗi tháng MiG-25 có 2 chuyến trinh sát, và đã bay qua Israel khoảng 20 lần. Năm 1973, một chiếc MiG-25R đã đạt đến tốc độ Mach 3.2 trong khi đang bị những chiếc F-4E của Israel bám đuổi.[16] Không quân Israel đã không thể tìm được cách nào để ngăn chặn những chiếc MiG-25, dù tình báo của Israel luôn biết trước được lịch bay qua không phận Israel của MiG-25. Tổ hợp tên lửa phòng không Raytheon Hawk mà Israel mua của Mỹ cũng vô dụng với MiG-25, vì chúng chỉ có thể đánh chặn mục tiêu ở độ cao tối đa là 12.200 mét.

Tuy nhiên, Chính phủ Xô Viết chủ trương giải quyết xung đột Do thái - A rập bằng biện pháp hòa bình nên đã giới hạn các hoạt động của họ ở mức độ giúp cho Ả Rập tự vệ (phi công Liên Xô chỉ tham chiến nếu máy bay Israel xâm phạm không phận Ai Cập và họ sẽ không tấn công sang lãnh thổ Israel). Điều này khiến khối Ả Rập tức giận. Sau khi Liên Xô liên tục từ chối viện trợ các loại vũ khí hiện đại nhất (máy bay MiG-23, MiG-25) vì không muốn Ai Cập khởi động chiến tranh, Tổng thống Sadat ra tối hậu thư, yêu cầu Liên Xô phải bán MiG-25 cho Ai Cập trong vòng một tuần hoặc các cố vấn Liên Xô phải rời quốc gia này ngay lập tức. Chiều ngày 18/7/1972, tổng thống Ai cập chính thức tuyên bố yêu cầu các cố vấn quân sự Xô Viết phải bàn giao toàn bộ vũ khí – khí tài cho Quân đội Ai cập và trục xuất họ trở về nước. Tổng thống Syria cũng yêu cầu Liên Xô triệu hồi toàn bộ cố vấn quân sự về nước sau khi họ từ chối viện trợ MiG-23 cho Syria.

Kế hoạch của liên quân Ả Rập

Quân đội Ai Cập và Syria tấn công trong ngày lễ Yom Kippur là một chuyện bất ngờ mặc dầu Israel đã chuẩn bị, vì nhằm ngày lễ Yom Kippur nên quân đội Do Thái vẫn chưa đưa kịp những đơn vị trừ bị ra phòng tuyến chống lại cuộc tấn công của hai quốc gia Ả Rập. Còn với người Arab, đó là tháng lễ Ramadan và đúng vào ngày mà người Hồi giáo mở tiệc ăn mừng chiến thắng của Nhà tiên tri Muhammad trong Cuộc chiến Badr và việc ông trở về Mecca. Người Ai Cập lấy mật danh của cuộc tấn công này là Chiến dịch Badr.

Từ năm 1970 tới nửa đầu năm 1973, khối Ả rập liên tục tung hỏa mù bằng việc đưa ra những lời đe dọa chiến tranh. Cứ vài tháng, tổng thống Ai Cập Sadat lại công khai tuyên bố ý định tấn công Israel. Ông gọi 1971 là "năm quyết định", nhưng 1971 qua đi mà không có sự kiện gì xảy ra. Năm 1972, Sadat lại có tuyên bố thù địch với Tel Aviv, tuy nhiên quân Ai Cập vẫn án binh bất động. Đến trước năm 1973, khi nghe Ai Cập tuyên bố tấn công, chẳng mấy ai còn tin nữa. Những đợt chuyển quân lớn của Ai Cập và Syria lên vùng biên giới vào tháng 9/1973 để chuẩn bị cho chiến tranh thực sự cũng không làm Israel cảm thấy cần cẩn thận hơn trong bố phòng biên giới.

Kế hoạch tác chiến của quân Ả rập được tuyệt đối giữ kín. Ở Ai Cập, trước ngày 1/10/1973, chỉ có tổng thống và bộ trưởng quốc phòng nắm được bí mật này. Về phần Syria, chỉ một số nhân vật trong nội các (dưới 10 người) biết rằng chiến tranh sẽ nổ ra. Dè chừng hệ thống nghe trộm điện tử tinh vi của Israel, lãnh đạo Ả rập hạn chế tối đa liên lạc qua điện thoại và điện tín.

Trong khi đó, thắng lợi giòn giã năm 1967 khiến Israel quá tự mãn và xem quân đội của họ là vô địch trong khu vực, họ tin rằng người Ả rập còn lâu mới dám đối đầu một lần nữa.

Các chính trị gia Israel, sau nhiều lần bị báo động giả, không tin rằng người Ả rập có ý định gây chiến nghiêm túc. Thiếu úy tình báo quân đội Israel có tên Binyamin Siman-Tov đã viết liền 2 bản báo cáo dài về nguy cơ chiến tranh vào ngày 1 và 3/10, nhưng bị cấp trên bỏ qua. Các điệp viên Mossad ngày 5/10 báo cáo rằng “chiến tranh đang cận kề”, song Giám đốc tình báo quân đội Israel đã bác bỏ cảnh báo này. Chính phủ Israel chỉ lường trước về một cuộc tấn công giới hạn, nhưng không ngờ sẽ phải đối mặt với cả một cuộc chiến tổng lực về quân sự, chính trị và kinh tế mà người Ả Rập đã chuẩn bị trong 6 năm.

Lực lượng

Đến tháng 10/1973, Israel có 32 sư đoàn bộ binh, xe tăng và cơ giới, 04 lữ đoàn đổ bộ đường không và 04 lữ đoàn pháo binh. Israel có khoảng 2.150 xe tăng, trong đó có 29 chiếc PT-76 và hơn 300 chiếc T-54/55 tịch thu của quân Ả Rập từ chiến tranh Sáu ngày năm 1967, 250 chiếc là loại M4 Sherman cũ từ thời Thế chiến II (đã được Israel nâng cấp để mang pháo 105mm kiểu mới), mấy trăm chiếc AMX-13, còn lại 1.100 chiếc là những loại xe tăng chủ lực hiện đại của Mỹ-Anh là M48A3 Pattonxe tăng Centurion (toàn bộ đã được Israel nâng cấp để mang pháo 105mm kiểu mới). Ngoài ra Israel còn có 4.000 xe bọc thép, gần 1.000 khẩu pháo và súng cối. Không quân Israel có 400 máy bay chiến đấu, trong đó có không ít hơn 100 F-4 Phantom, gần 150 A-4 Skyhawk, hơn 50 Mirage. Hải quân có 02 tàu ngầm, 12 tàu tên lửa và gần 40 tàu tuần tiễu.

Xe tăng Centurion của Israel

Tại bán đảo Sinai, dọc kênh đào Suez, Israel còn xây dựng các tuyến phòng ngự vững chắc. Quan trọng nhất là tuyến Bar-Lev dọc toàn bộ bờ đông (bờ châu Á) của kênh đào Suez. Chiều sâu phòng ngự của tuyến này từ 30 đến 50 km. Ở tuyến thứ nhất có 33 trận địa phòng ngự (mỗi trận địa có 01 trung đội bộ binh và 01 trung đội tăng) có chiều rộng 150 đến 300m và chiều sâu 200m, cự ly giữa các trận địa phòng ngự - 6 đến 10 km. Có 100 công sự bê tông kiên cố. Ở các hướng chủ yếu cứ mỗi một km dọc tuyến có 10 đến 12 xe tăng và 5-6 vũ khí chống tăng. Israel cũng chi 600 triệu đô la để đắp các bức tường cát cao từ 8-20m. Trên cao nguyên Goland, Israel cũng bố trí tuyến phòng ngự có chiều sâu 12 đến 20 km và chiều rộng 75 km, gồm một mạng lưới phức tạp các chiến hào chống tăng, bệ bắn và đài quan sát để đối phó với Syria.

Quá tự mãn sau khi đè bẹp liên quân Ả rập trong cuộc chiến năm 1967, giới lãnh đạo quân sự Israel đã đánh giá thấp đối thủ của họ. Một thiếu tướng Israel cao giọng: “Hãy đặt tất cả lính dù Arab trang bị tên lửa Sagger trên một ngọn đồi và tôi sẽ thổi bay họ chỉ bằng 2 chiếc xe tăng”.

Cuối năm 1973, quân đội Ai cập có 12 sư đoàn và 20 lữ đoàn với 650.000 quân, 100 tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo, 2.500 xe tăng, khoảng 2.500 xe bọc thép, hơn 2.000 khẩu pháo, gần 2.500 tổ hợp tên lửa chống tăng vác vai, hơn 500 tổ hợp phòng không các loại, gần 2.000 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai và gần 3.000 pháo phòng không. Không quân có gần 600 máy bay chiến đấu, trong đó có 18 máy bay ném bom Tu-16Il-28, 210 máy bay tiêm kích MiG-21, hơn 100 máy bay cường kích Su-7. Hải quân có 12 tàu ngầm, 5 tàu khu trục, 3 khinh hạm, 19 tàu tên lửa (8 chiếc Komar, 11 chiếc kiểu 183R), hơn 40 tàu phóng lôi và tuần tiễu. Khoảng một nửa số này được huy động cho cuộc chiến tranh.

Cuối năm 1973, quân đội Syria có 5 sư đoàn và 20 lữ đoàn với 300.000 quân, gần 20 tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo, 1.500 đến 2.000 xe tăng, 1.500 xe bọc thép, 1.000 khẩu pháo, súng cối và hệ thống hỏa lực bắn dàn, 2.800 tổ hợp tên lửa chống tăng vác vai, 360 tổ hợp phòng không các loại, 1.000 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai, gần 2.000 pháo phòng không. Không quân có gần 300 máy bay chiến đấu, trong đó - từ 110 đến 180 MiG-21 và không ít hơn 40 Su-7. Hải quân có 9 tàu tên lửa (3 tàu Komar, 6 tàu dự án 183R), gần 20 tàu phóng lôi và tuần tiễu. Khoảng một nửa số này được huy động cho cuộc chiến tranh.

Theo nguồn Liên Xô thì tổng cộng Ai Cập và Syria tung vào cuộc chiến khoảng 3.225 xe tăng và xe thiết giáp, 946 máy bay, 430.000 binh lính và sĩ quan.

Các lực lượng Ai Cập được huấn luyện diễn tập tấn công qua kênh đào Suez ít nhất 35 lần nhằm vào những mô hình có kích thước như thật. Vượt qua kênh đào Suez là một thử thách khó khăn: phải vượt những chỗ kênh đào rộng tới 200 m, và xuyên thủng các thành lũy được Israel xây dựng ở phía bên kia bờ kênh. Những thành trì đắp bằng cát này cao gần 20 m và có sườn dốc từ 45 - 65 độ. Để khoét lối mở đường cho binh sĩ và khí tài tiến vào, người Ai Cập đã thành lập 40 tiểu đoàn kỹ thuật trang bị 450 vòi rồng công suất cao.

Về quân số trên bộ (Bộ binh, Thiết giáp), tổng số quân Ai Cập và Syria đông gấp 1,5 lần quân Do Thái. Về không quân, Ai Cập và Syria nhiều hơn 2 lần về số máy bay. Về hải quân, 2 bên khá tương đương nhau. Tuy nhiên, Israel có lợi thế về địa hình (họ có sẵn hệ thống công sự vững chắc để phòng ngự) và binh sĩ của họ có kỷ luật và kinh nghiệm chiến đấu tốt hơn quân Ả Rập.

Trong những giờ đầu, nhờ ưu thế từ sự bất ngờ, ưu thế của quân A Rập rất lớn. Tại phòng tuyến phía nam, trong 24 giờ đầu, 8.500 lính Do Thái phải đương đầu với khoảng 100.000 quân Ai Cập. Nơi hướng bắc, 5.000 binh sĩ Do Thái phải chống lại 45.000 quân Syria. Không như trận chiến Sáu Ngày, quân đội hai nước Ả Rập được trang bị vũ khí tối tân, đặc biệt vũ khí cá nhân, đeo trên lưng hỏa tiễn chống chiến xa AT-3 có thể bắn cháy xe tăng ở cự ly 2.500 mét. Về không quân, 440 máy bay của không lực Do Thái phải đối đầu với 400 chiến đấu cơ của Ai Cập, 350 của Syria.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Yom_Kippur http://www.ariel-sharon-life-story.com/10-Ariel-Sh... http://www.cnn.com/SPECIALS/cold.war/episodes/17/1... http://www.defencejournal.com/2002/nov/4th-round.h... http://www.flickr.com/search/?q=October+War+Panora... http://books.google.com/books?id=z58nmWqS94MC&prin... http://www.historynet.com/magazines/military_histo... http://www.isracast.com/Articles/Article.aspx?ID=2... http://www.isracast.com/yk/stage.swf http://info.jpost.com/C003/Supplements/30YK/art.23... http://www.newsflavor.com/World/Middle-East/The-Bi...